
1. Quy định pháp luật về vấn đề xử lý nợ ngân hàng chung khi ly hôn
Việc xử lý nợ ngân hàng khi ly hôn còn phụ thuộc vào việc khoản nợ đó là khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng.
Nếu khoản nợ ngân hàng đó là giao dịch được vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập nhằm đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình thì cơ vợ và chồng đều phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác với ngân hàng về việc quyết định ai là người trả nợ thì sẽ được thực hiện theo thỏa thuận đó.
Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được về việc chia nợ ngân hàng chung thì Toà án sẽ giải quyết theo quy định pháp luật.
Về các khoản nợ chung, nợ riêng, căn cứ theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình, số 52/2014/QH13 có quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung về tài sản đối với:
- Nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch được vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ về việc bồi thường thiệt hại mà vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
- Nghĩa vụ do vợ/chồng thực hiện nhằm mục đích đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu/sử dụng/định đoạt tài sản chung của vợ, chồng;
- Nghĩa vụ phát sinh khi sử dụng tài sản riêng vợ, chồng để duy trì/phát triển khối tài sản chung/tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình;
- Nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại do con gây ra mà theo quy định thì cha mẹ có trách nhiệm phải bồi thường và các nghĩa vụ khác được pháp luật quy định.
Đồng thời, tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định vợ chồng có nghĩa vụ riêng về tài sản sau:
- Nghĩa vụ mà mỗi bên có trách nhiệm trước khi kết hôn;
- Nghĩa vụ của mỗi bên phát sinh từ việc chiếm hữu/sử dụng/định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng;
- Nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch do một bên xác lập và thực hiện mà không vì mục đích đáp ứng nhu cầu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ các hành vi vi phạm pháp luật của mỗi bên.
Mặt khác, căn cứ theo Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn sẽ có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác về nghĩa vụ tài sản này.
2. Vợ chồng có được ly hôn khi chưa trả hết nợ chung?
Việc vợ chồng chưa trả hết nợ chung không phải là điều kiện để Toà án được hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, đồng thời cũng không phải là căn cứ để Toà án làm cơ sở không giải quyết việc ly hôn.
Bởi căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu ly hôn của vợ, chồng. Theo đó, vợ/chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.
Ngoài ra, trường hợp vợ, chồng bị tâm thần/mắc bệnh không thể nhận thức hay làm chủ hành vi và là nạn nhân bạo lực gia đình khiến sức khoẻ và tinh thần bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cha, mẹ hoặc người thân thích của người đó có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Bên cạnh đó, Điều luật này cũng chỉ hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của chồng khi vợ đang mang thai, sinh con/đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Điều luật này không đề cập đến việc yêu cầu vợ chồng phải trả hết nợ chung trước khi ly hôn.
Như vậy, việc xử lý nợ ngân hàng khi ly hôn sẽ căn cứ vào mục đích khoản vay, người đứng tên và chứng cứ chứng minh nghĩa vụ tài chính của mỗi bên. Nắm rõ quy định và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ sẽ giúp quá trình giải quyết ly hôn diễn ra thuận lợi, hạn chế tranh chấp phát sinh. Khi gặp trường hợp phức tạp hoặc khoản nợ lớn, vợ chồng nên tham khảo ý kiến luật sư để được tư vấn phương án phù hợp nhất và bảo vệ quyền lợi của mình một cách hiệu quả.
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng Số 55, phố Đỗ Quang, Phường Yên Hòa, TP Hà Nội, Việt Nam
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email nhận tư vấn: tuvan@luatphucgia.vn
Website: luatphucgia.vn