Pháp luật hình sự quy định cụ thể các trường hợp là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS).
“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe doạ hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”
Theo đó tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự quy định cụ thể 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vậycùng Luật Phúc Gia làm rõ một số tình tiết hơn theo quy định của luật nhé:
“Làm giảm bớt tác hại của tội phạm” là khi tội phạm đã được thực hiện, tác hại của tội phạm đang xảy ra và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để không cho tác hại của tội phạm xảy ra lớn hơn.
Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào thái độ của người phạm tội (tự mình hay có sự tác động, bắt buộc của người khác…); thực tế tác hại của tội phạm đã được ngăn chặn, được làm giảm bớt…Trong trường hợp cụ thể cần phân biệt giữa “tác hại” và “thiệt hại” để xác định đúng và áp dụng đúng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cụ thể.
Thứ nhất, đây là trường hợp tội phạm đã gây ra thiệt hại, gây ra hậu quả.
Thứ hai, Người phạm tội phải tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Cũng được coi là tự nguyện nếu do người khác tác động (khuyên bảo) hay theo yêu cầu của người bị thiệt hại mà người phạm tội sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Đặc biệt sự tự nguyện ở đây là chưa có sự ép buộc từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết định yêu cầu phải thực hiện nhưng người phạm tội đã thực hiện một cách chủ động.
Thứ ba, Việc Sửa chữa là sửa lại, chữa lại những cái bị làm hư hỏng do hành vi phạm tội gây ra. Việc Bồi thường là bồi thường bằng tài sản cho những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Thứ Tư, Khắc phục hậu quả là khắc phục tác hại của tội phạm gây ra mà không thể sửa chữa hoặc bồi thường bằng tài sản được.
Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào tính tự nguyện; hiệu quả của việc sửa chữa, khắc phục hậu quả; mức độ bồi thường thiệt hại…
Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự gây ra. Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn này có thể do thiên tai, địch hoạ hoặc do nguyên nhân khác gây ra (có thể do người khác gây ra). Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ, hoàn cảnh khó khăn và khả năng khắc phục của người phạm tội.
Tình tiết giảm nhẹ này thông thường áp dụng đối với người phạm tội là đồng bào dân tộc thiểu số ở một số nơi mà tập tục còn lạc hậu, những nơi vùng sâu vùng xa mà người dân không có điều kiện để tiếp thu những kiến thức văn mình, còn tồn tại nhiều tập tục. Ví dụ như một số nơi vẫn còn tập tục bắt vợ, ép cưới mà không được sự đồng thuận của bên còn lại dẫn đến nhiều hậu quả đau lòng như người bị ép cưới, người bị bắt về làm vợ tự tử…
Cần phân biệt tự thú với đầu thú. Đầu thú là có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện.
Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình không chỉ bằng lời nói mà còn phải bằng những hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt; bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Mức độ giảm nhẹ của việc thành khẩn khai báo phụ thuộc vào sự thành khẩn được thực hiện ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của sự thành khẩn trong việc giải quyết vụ án; mức độ giảm nhẹ của sự ăn năn hối cải phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những hành động, việc làm cụ thể chứng minh cho sự ăn năn hối cải đó.
Ngoài ra quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cũng đã mở ra thêm những gợi ý để Toà án làm căn cứ quyết định hình phạt.
Việc đầu thú có thể hiểu là người thực hiện hành vi phạm tội đã tự nhận hành vi phạm tội của mình sau khi hành vi đó đã bị phát hiện nhưng người phạm tội đó vẫn chưa bị bắt giữ. Đầu thú hoàn toàn không giống với tự thú và do đó nó chỉ có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ chứ không thể là tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự. Tình tiết này bắt buộc phải được ghi rõ lý do trong bản án chứ không đương nhiên là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1.
Ngoài đầu thú, Tòa án cũng được quyền xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ (không bị giới hạn) nhưng với điều kiện phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong Bán án. Tuy nhiên Bộ luật hình sự lại chưa có quy định chi tiết những tình tiết khác ở đây là những tình tiết nào, có bẳt buộc phải đảm bảo các tiêu chí nhất định hay không.
Tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các tình tiết sau đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Tại Án lệ số 48/2021/AL cũng có quy định về tình tiết nộp lại tiền thu lợi bất chính cũng được áp dụng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2.
Trên đây là một số phân tích pháp lý của Luật Phúc Gia về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mọi vướng mắc liên quan vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Hotline: 0985.181.183
Gmail: luatphucgia@gmail.com
Địa chỉ: Số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hoà, Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội
Trân trọng!