
1. Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
2. Khái niệm “Trọng cung” và “Trọng chứng” trong bài viết
2.1. “Trọng cung” là gì?
Cung là lời khai, lời cung của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), của người làm chứng, người biết việc, người có liên quan, tức là lời của chủ thể là con người phát ngôn mà thành.
Như vậy, “Trọng cung” trong tố tụng có thể hiểu là việc chỉ sử dụng lời khai, lời cung của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), của người làm chứng, người biết việc, người có liên quan để làm căn cứ giải quyết vụ án.
2.2. “Trọng chứng” là gì?
Chứng ở đây là chứng cứ nhưng chứng cứ này giới hạn ở vật chứng, tức thứ vật chất chứa đựng chứng cứ hay nói đầy đủ là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
3. Những điểm sáng trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc xóa bỏ cơ chế "Trọng cung hơn trọng chứng"
3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội
“Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
3.2. Quyền im lặng
“Quyền im lặng” của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định tại các điều 58, 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015. Điểm d khoản 1 Điều 58 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc hải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Điểm c khoản 1 Điều 59 quy định về người bị tạm giữ có quyền: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc hải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Điểm d khoản 1 Điều 60 quy định bị can có quyền ““Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc hải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Điểm h khoản 1 Điều 61 quy định bị cáo có quyền: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc hải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Như vậy, mặc dù không dùng chính xác thuật ngữ “quyền im lặng”, nhưng việc quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” đã thể hiện nội hàm của quyền im lặng. Có thể hiểu rằng trong quá trình tố tụng người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp/người bị bắt/người bị tạm giữ/ bị can/ bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc thừa nhận mình có tội. Trong phiên tòa, nếu xét thấy cơ quan tố tụng đưa ra những câu hỏi, bằng chứng bất lợi cho họ thì họ cũng có quyền giữ im lặng.
3.3. Trách nhiệm chứng minh tội phạm
Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
3.4. Quy định rõ về thu thập, bảo quản, thẩm định và sử dụng chứng cứ:
Điều 86, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: "Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án".
Như vậy, có thể thấy những gì được coi là chứng cứ phải là những thứ có thật, có liên quan đến vụ án hình sự và được thu thập theo trình tự thủ tục luật định. Chứng cứ có 03 thuộc tính là tính khách quan, tính liên quan và thu thập hợp pháp. Nếu thiếu một trong các thuộc tính đó thì tài liệu đồ vật đó không được coi là chứng cứ. Chứng cứ dùng để chứng minh hành vi có tội (để buộc tội), không có tội (gỡ tội) hoặc để chứng minh tính chất, mức độ hành vi, nhân thân và các tình tiết khác của vụ án hình sự.
Nguyên tắc thu thập chứng cứ: Quy định rõ ràng các nguyên tắc và thủ tục thu thập chứng cứ một cách khoa học, khách quan, chính xác, hạn chế tình trạng ép cung, nhục hình.
Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định, chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác.
Khoản 2, Điều 87, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định: "Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.". Chính vì vậy, đối với các bị can, bị cáo, người đang chấp hành án thì họ bị cách ly với đời sống xã hội, mọi thứ từ văn bản, ý kiến của họ chuyển ra bên ngoài phải có sự xét duyệt, xác nhận của cơ sở giam giữ. Do đó, những nội dung lời khai giấu diếm, lén lút của bị can, bị cáo, người đang phải chấp hành hình phạt tù mà không được cơ sở giam giữ xác nhận thì không được coi là chứng cứ, không được dùng để sử dụng làm căn cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
Trong trường hợp các bị can, bị cáo, người bào chữa hoặc những người khác biết được bị can bị cáo khác hoặc phạm nhân khác có những thông tin quan trọng có thể làm chứng cứ, là người làm chứng thì phải liên hệ với cơ sở giam giữ để được xác nhận, thu thập chứng cứ có xác nhận của cơ sở giam giữ thể chứng cứ đó mới hợp lệ, có thể sử dụng làm căn cứ để chứng minh, mới thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ trong đó có thuộc tính là "thu thập hợp pháp".
Thẩm định chứng cứ: Yêu cầu cơ quan điều tra phải tiến hành giám định, thẩm định kỹ lưỡng các loại chứng cứ, đặc biệt là chứng cứ điện tử và các chứng cứ kỹ thuật khác.
Sử dụng chứng cứ: Quy định về việc sử dụng chứng cứ trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, đảm bảo tính hợp pháp và giá trị của từng loại chứng cứ.
Điều 26, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định kết quả giải quyết vụ án hình sự phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa.
Nhìn chung, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bước đầu xóa bỏ cơ chế "trọng cung hơn trọng chứng", hướng tới một nền tư pháp minh bạch, công bằng và hiệu quả hơn, dựa trên nền tảng chứng cứ khách quan và khoa học.
Bạn còn vướng mắc liên quan hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội.
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email: tuvan@luatphucgia.vn