
1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì?
2. Phân tích dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Chủ thể: Căn cứ vào Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Bộ luật Hình sự sửa đổi số 12/2017/QH14, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.
Về cơ bản, các tội xâm phạm sở hữu là những tội có cùng khách thể là quan hệ sở hữu.
- Mặt chủ quan: Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt này là gian dối, trái pháp luật. Đồng thời thấy trước được khi thực hiện hành vi đó thì tài sản của người khác sẽ bị chiếm đoạt trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả này xảy ra.
- Mặt khách quan:
Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Trong đó:
Dùng thủ đoạn gian dối là việc đưa thông tin sai sự thật (thông tin giả) nhưng làm người khác tưởng thật và giao tài sản cho người phạm tội. Có nhiều cách để đưa thông tin giả như bằng lời nói, chữ viết, hành động, giả vờ vay, mượn… để lừa người khác và chiếm đoạt tài sản của người đó.
Chiếm đoạt tài sản của người khác thành của mình một cách trái pháp luật.
Về dấu hiệu: Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đonạ gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Về giá trị tài sản:
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng trở lên.
- Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt <02 triệu đồng: Thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản dù chưa được xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục vi phạm cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
3. Mức phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự thế nào?
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Hình phạt bổ sung
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản có phải tình tiết tăng nặng?
“Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
...
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
...
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.”
Có thể thấy, nếu theo quy định trên thì tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt để phạm tội được xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt lại chỉ là dấu hiệu định khung.
Do đó, việc dùng thủ đoạn xảo quyệt để phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Mọi vướng mắc liên quan hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ Quý bạn đọc vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội.
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email: tuvan@luatphucgia.vn