
CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Chuẩn bị phạm tội (Điều 14 BLHS)
- Phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS)
- Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS)
GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM LÀ GÌ?
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là những bước phát triển tuần tự và nhất định của một tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, bắt đầu từ khi ý định phạm tội được thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi cụ thể, cho đến khi hành vi đạt mức độ nguy hiểm xã hội cao nhất theo quy định của pháp luật.
Khái niệm này chỉ áp dụng đối với tội phạm cố ý. Đặc điểm cơ bản của chuỗi giai đoạn này là sự phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội tại từng thời điểm. Mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi tăng dần theo quá trình phát triển từ giai đoạn chuẩn bị cho đến khi tội phạm hoàn thành. Theo quy định hiện hành của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017/2025 (BLHS), các giai đoạn chính bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, Phạm tội chưa đạt, và Tội phạm hoàn thành. Cần lưu ý rằng, chế định Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS) là một sự kiện pháp lý đặc biệt dẫn đến miễn trách nhiệm hình sự (TNHS), không được xếp vào là một giai đoạn phát triển tất yếu của tội phạm.
CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1. CHUẨN BỊ PHẠM TỘI (Điều 14 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017)
Căn cứ quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 4 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017:
“1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Theo Khoản 1 Điều 14 BLHS 2015 thì “Chuẩn bị phạm tội có ba nhóm hành vi chuẩn bị phạm tội sau đây:
- Thứ nhất, là nhóm hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm.
Công cụ, phương tiện phạm tội đều là đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng tác động đến đối tượng tác động của tội phạm như dao để đâm nạn nhân, búa để phá cửa nhà kho vào trộm cắp... và bao gồm dụng cụ (sinh hoạt hoặc lao động, sản xuất), vật sẵn có trong tự nhiên hoặc là vật mà người phạm tội chế tạo ra. Ở một số tội phạm, phương tiện phạm tội lại có ý nghĩa quy định bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và do vậy được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm như phương tiện phạm tội của tội đưa hối lộ được quy định phải là tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
Tìm kiếm công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm là tìm kiếm dụng cụ (sinh hoạt hoặc lao động, sản xuất), vật sẵn có trong tự nhiên để làm công cụ hoặc phương tiện phạm tội. Sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm là việc sản xuất, chế tạo ra vật làm công cụ, phương tiện như mài nhọn thanh sắt, làm côn gỗ để thực hiện tội phạm.
- Thứ hai, là nhóm hành vi tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra hoặc xảy ra được thuận lợi, dễ dàng hơn (mà không phải là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện). Đó có thể là chuẩn bị kế hoạch phạm tội, thăm dò địa điểm phạm tội, làm quen với nạn nhân hoặc loại trừ trước trở ngại khách quan đối với hành vi phạm tội.
- Thứ ba, là nhóm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm là hành vi hình thành hoặc tham gia nhóm có mục đích thực hiện tội phạm.
Đây là nhóm hành vi mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. Theo đó, thành lập nhóm tội phạm là hình thành nhóm để thực hiện tội phạm; Còn tham gia nhóm tội phạm là tham gia nhóm đã được thành lập để thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên tại khoản 1 Điều 14 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) có quy định loại trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 BLHS. Cụ thể:
- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109)
- Tội khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điểm a khoản 2 Điều 113)
- Tội Khủng bố (Điểm a khoản 2 Điều 299)
Thì khi thành lập hoặc tham gia 3 nhóm tội phạm trên sẽ bị xét xử như quy định tại Điều khoản đó, chứ không xử lý như trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Nguyên tắc pháp lý trong BLHS Việt Nam là hạn chế truy cứu TNHS đối với hành vi chuẩn bị phạm tội. Cụ thể, hành vi chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu TNHS đối với tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với các tội phạm ít nghiêm trọng hơn, hành vi chuẩn bị sẽ không bị coi là tội phạm phải truy cứu. Sự hạn chế này phản ánh sự thận trọng của nhà làm luật. Hành vi chuẩn bị mặc dù đã biểu lộ ý chí phạm tội nhưng vẫn còn xa mức độ xâm hại thực tế đối với khách thể được pháp luật bảo vệ. TNHS chỉ áp dụng khi tội định phạm có mức độ nguy hiểm tiềm tàng cực lớn (rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), thể hiện chính sách hình sự chỉ can thiệp vào giai đoạn sơ khai của hành vi khi mối đe dọa xã hội là đáng kể. Đây là ranh giới pháp lý quan trọng giữa việc kiểm soát ý định nguy hiểm và tôn trọng tự do cá nhân trước khi hành vi gây hại thực sự bắt đầu.
2. PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT (Điều 15 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017)
Điều 15 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.”
Như vậy, có thể thấy rằng, phạm tội chưa đạt thể hiện ý chí chủ quan của người phạm tội muốn thực hiện một hành vi phạm tội đến cùng, nhưng vì những yếu tố bên ngoài mà hành vi đó không thành công. Khác với chuẩn bị phạm tội, giai đoạn này yêu cầu người phạm tội đã có sự bắt đầu thực hiện tội phạm - tức là đã vượt qua ranh giới của việc chuẩn bị.
Căn cứ vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội của người thực hiện, phạm tội chưa đạt chia làm hai loại là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt hoàn thành.
Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến tội phạm không thực hiện được đến cùng thì có thể chia phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt vô hiệu và các trường hợp phạm tội chưa đạt khác
Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội định phạm, nhưng được xem xét giảm nhẹ hình phạt.
3. TỘI PHẠM HOÀN THÀNH
Tội phạm hoàn thành là trường hợp các hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong cấu thành tội phạm. Việc hoàn thành này là hoàn thành về mặt pháp lý. Một nguyên tắc quan trọng là thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích cá nhân hay chưa. Đặc biệt, đối với nhiều loại tội phạm, nó cũng không phụ thuộc vào việc hậu quả vật chất (thiệt hại) đã thực sự xảy ra hay chưa. Hành vi phạm tội chỉ cần đáp ứng các yếu tố của cấu thành tội phạm là đủ để được coi là hoàn thành. Việc xác định chính xác thời điểm hoàn thành tội phạm đòi hỏi phải phân tích kỹ thuật cấu thành tội phạm quy định trong BLHS.
4. TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI (ĐIỀU 16 BLHS)
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hành vi người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, mặc dù không có bất kỳ yếu tố nào ngăn cản. Khác biệt cơ bản so với phạm tội chưa đạt là yếu tố tác động là hoàn toàn chủ quan, xuất phát từ ý chí tự nguyện của người phạm tội (ví dụ: hối hận, sợ bị phát hiện, nhận ra lỗi lầm). Chế định này là biểu hiện của tính nhân đạo trong luật hình sự, nhằm khuyến khích người phạm tội có cơ hội hối lỗi, giảm thiểu thiệt hại tiềm tàng cho xã hội. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm (trừ trường hợp hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác). Việc miễn TNHS dựa trên hai căn cứ lý luận sau:
Về mặt chủ quan: Người phạm tội đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định phạm tội, không còn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng.
Về mặt khách quan: Hành vi thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của tội phạm muốn thực hiện vì chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Điều quan trọng cần làm rõ là tự ý nửa chừng chấm dứt chỉ có thể xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Chế định này không thể áp dụng khi hành vi đã đạt đến mức Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Khi hành vi đã hoàn thành (theo cách hiểu của Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành), tức là người phạm tội đã thực hiện hết khả năng của mình để gây ra hậu quả. Mức độ nguy hiểm của hành vi đã ở ngưỡng cực đại; do đó, sự hối hận hay dừng lại sau khi đã làm hết sức mình không còn là sự rút lui tự nguyện đáng được miễn hoàn toàn trách nhiệm hình sự.
Luật sư khi tham gia vào vụ án mà thân chủ rơi vào những trường hợp như vậy cũng cần xem xét kỹ chứng cứ, tìm hiểu kỹ nội dung, chi tiết của vụ án để có thể đảm bảo thân chủ được xét xử đúng quy định
DỊCH VỤ PHÁP LÝ TẠI LUẬT PHÚC GIA
1. Dịch vụ luật sư tham gia tố tụng: Luật sư Hình sự, Luật sư Dân sự, Luật sư kinh doanh thương mại….
2. Dịch vụ luật sư đại diện ngoài tố tụng:
3. Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật
4. Dịch vụ pháp lý khác
VÌ SAO CHỌN LUẬT PHÚC GIA?
- Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm: Chuyên môn sâu rộng, tận tâm với khách hàng.
- Giải pháp linh hoạt & tối ưu: Mỗi khách hàng có một chiến lược pháp lý riêng biệt.
- Bảo mật tuyệt đối: Cam kết giữ kín mọi thông tin của khách hàng.
Hãy để chúng tôi đồng hành cùng bạn trên mọi chặng đường pháp lý!
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng Số 55, phố Đỗ Quang, Phường Yên Hòa, TP Hà Nội, Việt Nam
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email nhận tư vấn: tuvan@luatphucgia.vn
Website: luatphucgia.vn