Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, không ít trường hợp tội phạm được thực hiện không chỉ bởi một người mà là sự tham gia của nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp này được gọi là đồng phạm. Việc xác định đồng phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi mỗi người tham gia có vai trò, mức độ lỗi và hành vi khác nhau — từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình phạt. Vậy pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về đồng phạm? Và khi có nhiều người cùng phạm tội, Tòa án căn cứ vào đâu để quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm?
1. CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017)
2. ĐỒNG PHẠM LÀ GÌ?
Đồng phạm được quy định chi tiết tại Điều 17 BLHS 2015 Sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể:
“Điều 17. Đồng phạm
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”
Theo Khoản 1 Điều 17 BLHS xác định các dấu hiệu của đồng phạm: Khái niệm đồng phạm được hiểu là việc thực hiện hành vi phạm tội khi có từ hai chủ thể trở lên và tất nhiên các chủ thể này phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Các chủ thể cùng nhau thực hiện tội phạm một cách cố ý.
Theo khái niệm này đồng phạm gồm các dấu hiệu sau:
- Sự tham gia của hai người trở lên: đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Tức là cả hai người đều phải có điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Nếu trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hành.
Một hành vi phạm tội chỉ được xem xét có đồng phạm hay không khi có ít nhất từ hai chủ thể trở lên cùng thực hiện một tội phạm. Các chủ thể này thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng giữa họ chỉ có duy nhất một tội phạm cùng thực hiện thì tất nhiên các hành vi phạm tội còn lại sẽ không tồn tại yếu tố đồng phạm. Chính vì vậy mà việc xem xét có tồn tại đồng phạm hay không phải được cân nhắc xem xét trên từng tội danh một để xác định và từ đó pháp luật mới đưa ra khái niệm: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm”.
- Hai người đó cố ý cùng thực hiện một tội phạm: về dấu hiệu cố ý cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm và cùng mong muốn hậu quả xảy ra.
Xét Về ý chí: các chủ thể đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặt cho hậu quả đó xảy ra. Như vậy giữa các chủ thể đều thống nhất và quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng.
Xét về tính chất nguy hiểm giữa cùng một tội danh có đồng phạm và không đồng phạm thì tính chất, mức độ của hành vi phạm tội có đồng phạm gây nguy hiểm cao cho xã hội cũng như các hậu quả mà nó gây ra không hề nhỏ. Các tội phạm này thường được thực hiện một cách tinh vi, khó phát hiện cũng như ngăn chặn… vì vậy mà khi xét xử các tội danh có đồng phạm thì trách nhiệm hình sự của các chủ thể được xem xét ở mức tăng nặng trách nhiệm hình sự hơn so với cùng một tội danh được thực hiện riêng lẻ.
“Điều 52 qui định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
a) Phạm tội có tổ chức;
…"
Phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội có đồng phạm nhưng nguy hiểm hơn bởi có sự cấu kết chặt giữa những người đồng phạm. Tính cấu kết chặt chẽ biểu hiện ở việc phân hóa rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi đồng phạm từ khi tội phạm được hình thành cho đến khi kết thúc. Tính tổ chức của tội phạm được thể hiện:
Biến tổ chức thành môi trường, vỏ bọc, công cụ cho việc thực hiện tội phạm. Tổ chức được các đồng phạm tạo lập ra khi bắt đầu thực hiện tội phạm hoặc các đồng phạm tham gia vào một tổ chức, băng nhóm sẵn có. Ví dụ: các băng nhóm tội phạm hình thành chuyên đi cướp giật tại các khu vực trung tâm thành phố hoặc việc gia nhập vào băng đảng bảo kê, đòi nợ tại các quán bar, nhà hàng, khách sạn. Thông qua lý luận cũng như thực tiễn phòng chống tội phạm, các băng nhóm tội phạm hoạt động rất công khai, táo tợn, sẵn sàng tấn công bất kỳ ai có ý định can thiệp, chống trả, luôn có đầy đủ công cụ, phương tiện phạm tội…thậm chí có chủ trương, kế hoạch hoạt động. Tội phạm có tổ chức không chỉ tác động đến quan hệ bị xâm hại mà còn gây ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý xã hội.
Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người đồng phạm tham gia vào việc thực hiện tội phạm đưa lại. Giữa hành vi của mỗi người và hậu quả thiệt hại của tội phạm đều có quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi của người thực hành sẽ là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả còn hành vi của những người khác như người tổ chức, xúi giục hay giúp sức sẽ thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả. Khi thực hiện hành vi vi phạm mỗi người đều biết hành vi của mình có tính gây thiệt hại cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi như vậy cùng với mình. Nếu trường hợp mình chỉ biết bản thân có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi như vậy với tội mình gây ra thì đó chưa thoả mãn dấu hiệu lỗi cổ ý trong đồng phạm và do vậy không có đồng phạm theo quy định pháp luật.
3. VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG VỤ ÁN CÓ ĐỒNG PHẠM
Với tính chất của đồng phạm là có sự tham gia của nhiều người, phân hóa nội dung công việc nên vai trò của các chủ thể được biểu hiện thông qua các đối tượng cụ thể sau đây:
- Người tổ chức: đây là chủ thể có vai trò quan trọng, khơi mào cho tội phạm được thực hiện. Thể hiện ở việc khởi xướng, lập ra kế hoạch, đường lối, tập hợp, lôi kéo và phân công các thành viên hay nói cách khác người tổ chức là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tội phạm.
- Người xúi giục là người tác động lên nhận thức hoặc ý chí của người khác nhằm tìm mọi cách để tội phạm được thực hiện, hiện thực hóa tội phạm trên thực tế.
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện các hành vi khách quan của tội phạm. Ví dụ: là người dùng dao đâm, dùng súng bắn, đẩy nạn nhân xuống nước… đối với tội giết người; là người dùng vũ lực như đánh, đấm, đâm nạn nhân, trói nạn nhân… đối với tội cướp tài sản…Chủ thể là người thực hành, chúng ta xem xét dưới hai khía cạnh hành động trực tiếp hoặc hành động thông qua một người khác:
+ Hành động trực tiếp: Người hành động tự chính mình thực hiện các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm như tự mình cầm dao đâm, tự mình dùng súng bắn nạn nhân…
+ Hành động thông qua người khác: Người khác được đề cập ở đây chính là các chủ thể không có năng lực trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn dụ dỗ trẻ em dưới 14 tuổi vận chuyển heroin, lừa người khác đưa đồ ăn có chứa chất độc nhằm mục đích giết người. Trong trường hợp này, người xíu giục trẻ en vận chuyển heroin, người lừa đưa đồ ăn là người thực hành cho các tội danh liên quan.
- Người giúp sức là người hỗ trợ tích cực, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tội phạm được diễn ra, biểu hiện:
+ Giúp sức về vật chất: Như chuẩn bị sẵn công cụ, phương tiện phạm tội, thăm dò trước hiện trường, lập sơ đồ vị trí hướng dẫn, chỉ điểm, thông tin về đối tượng, quan hệ chuẩn bị xâm hại…
+ Giúp sức về tinh thần: Như động viên người thực hành (gợi ý mức lợi nhuận khổng lồ khi vận chuyển thành công heroin với số lượng lớn), hứa hẹn về việc che giấu tội phạm, các lợi ích…
Trong vụ án có đồng phạm có thể có đủ bốn loại chủ thể thực hiện vai trò nhất định trên tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải có đủ bốn người thực hiện bốn vai trò khác nhau. Người người được coi là đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc quá trình phạm tội.
Những người đồng phạm đều có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho sự hoạt động chung. Có thể tất cả những người đồng phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm và tổng hợp những hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định. Nhưng cũng có thể chỉ có một hoặc một số người trực tiếp thực hiện tội phạm còn những người khác chỉ có hành vi góp phần vào việc thực hiện tội phạm.
Những quy định về đồng phạm không phải là tình tiết tăng nặng, cũng không phải là tình tiết định khung hình phạt, nhưng trong một số trường hợp, đồng phạm có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không. Từ đó cho thấy việc tìm hiểu và làm rõ vấn đề đồng phạm có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có nhiều đối tượng tham gia.
4. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm được thực hiện theo quy định của Điều 58 BLHS 2015. Cụ thể:
“Điều 58. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”
Như vậy theo quy định tại Điều 58 BLHS 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017) thì khi quyết định hình phạt Tòa án phải xét đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất, khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải cân nhắc tính chất của đồng phạm.
Tính chất của đồng phạm được xác định bởi tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi có nhiều người tham gia dưới hình thức đồng phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm quyết định mức độ TNHS của những người tham gia đồng phạm, do đó luật quy định khi quyết định hình phạt Tòa án phải xem xét cân nhắc tính chất của đồng phạm. Để đánh giá đúng được vấn đề này thì phải quan tâm đến hình thức đồng phạm, xác định mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hình thức đồng phạm đó.
Nếu đồng phạm thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, thì luật hình sự quy định là tình tiết tăng nặng TNHS với hai mức độ khác nhau:
+ Mức độ thứ nhất là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng. Trường hợp này được quy định khi hình thức phạm tội có tổ chức xảy ra ở một loại tội phạm nào đó làm cho mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó cao hơn hẳn trường hợp phạm tội không có tình tiết này.
+ Mức độ thứ hai là tình tiết tăng nặng TNHS nói chung được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.
Thứ hai, khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn cứ vào tính chất tham gia hành động phạm tội của từng người đồng phạm.
Nếu như khi dựa vào căn cứ thứ nhất thì Tòa án mới chỉ xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội chung trong hành vi phạm tội của tất cả những người tham gia đồng phạm, thì với căn cứ này Tòa án có thể đánh giá được tính chất hành vi của từng người đồng phạm. TNHS là trách nhiệm cá nhân, do vậy, để quyết định hình phạt cho từng người đồng phạm phải dựa trên cơ sở hành vi cá nhân của mỗi người đồng phạm. Đây chính là thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt nói chung và nguyên tắc phân hóa trong đồng phạm nói riêng.
Mức độ tham gia của người đồng phạm được xác định bởi mức độ đóng góp thực tế của mỗi người đồng phạm vào việc thực hiện tội phạm và hậu quả chung của tội phạm. Để đánh giá mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm Tòa án phải căn cứ vào: phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, mức độ quyết tâm phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, hiệu quả của hành vi phạm tội của người đó trong hoạt động phạm tội chung...
Khi quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, Tòa án phải đánh giá tổng hợp cả tính chất và mức độ tham gia phạm tội của mỗi người đồng phạm. Trong đó tính chất tham gia phạm tội nói lên đặc tính về chất, còn mức độ tham gia phạm tội nói lên đặc tính về lượng của hành vi phạm tội của mỗi người đồng phạm. Hai mặt của một vấn đề này phải được đánh giá, cân nhắc toàn diện trong mối quan hệ qua lại với nhau để thấy được tính chất nguy hiểm cho xã hội của mỗi người đồng phạm.
Thứ ba, khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn cứ vào mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Đó là những yếu tố như: người đồng phạm tham gia ở giai đoạn phạm tội nào? Mức độ xúi giục, mức độ giúp sức của người đó đối với người thực hành đến đâu? Là người cầm đầu tích cực (chủ động) hay bị lôi kéo, xúi giục (thụ động)? Động cơ, mục đích của những người đồng phạm? Tác dụng của các hành vi đó đối với việc thực hiện tội phạm chung ra sao?... Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt đúng, phù hợp với từng người trong vụ án đồng phạm.
Thứ tư, khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm, Tòa án phải cân nhắc những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ riêng của từng người đó. Căn cứ này là sự cụ thể hóa tiếp tục nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc phân hóa triệt để trong đồng phạm.
Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của mỗi người tham gia đồng phạm là những tình tiết chỉ liên quan đến hành vi và nhân thân của người đó mà không có liên quan đến những người đồng phạm khác thì chỉ áp dụng đối với người đó, còn những người đồng phạm khác không phải chịu hoặc không được hưởng trong việc quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm.
Bạn còn vướng mắc liên quan hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội.
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email: tuvan@luatphucgia.vn