Trong lịch sử tư pháp hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội ra đời rất sớm và được coi là bước tiến quan trọng trong nhận thức của con người đối với vấn đề tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Nguyên tắc suy đoán vô tội lần đầu tiên được thừa nhận và tuyên bố như quyền cơ bản của con người tại Điều 9 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hoà Pháp năm 1789. Tuyên ngôn nêu rõ: "Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc".
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế năm 1966 của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị; Quy chế Rome năm 1998 về Tòa án hình sự quốc tế... và trong Luật tố tụng hình sự phần lớn các quốc gia trên thế giới. Nguyên tắc suy đoán vô tội là kết quả của cuộc đấu tranh không khoan nhượng của nhân dân, của dân chủ chống lại nền độc tài phong kiến và được xem như là giá trị tinh thần của nhân loại hiện diện trong pháp luật của thế giới văn minh.
Tại Việt Nam, một số nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã xuất hiện rất sớm trong các quy định về hoạt động xét xử của Toà án. Thông tư của Bộ Tư pháp số 2225-HCTP ngày 24/10/1956 hướng dẫn: “Trong quá trình điều tra cũng như xét xử, tuyệt đối không được mớm cung, bức cung hay trấn áp bị can bất cứ bằng hình thức nào hoặc dùng lời lẽ dụ dỗ, hứa hẹn để bị can nhận tội. Lời thú tội của bị can không kết thúc cuộc thẩm cứu mà còn phải có bằng chứng xác minh mới được dùng làm cơ sở để kết tội. Toà án chỉ dựa trên những sự việc đã xác minh rõ rệt ở phiên toà mà kết luận. Không nên có định kiến hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như với người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như không có tội để toà án có thái độ hoàn toàn khách quan”.
Suy đoán vô tội được ví như là nguyên tắc “vàng” trong tố tụng hình hình sự (TTHS), một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người. Việc ghi nhận và áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội giúp cho quá trình tố tụng ngày càng tiến bộ, dân chủ, phù hợp với cải cách tư pháp. Vì vậy việc tìm hiểu và nắm vững nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội là rất cần thiết.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tác suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015(BLTTHS)
“Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội; những nội dung đó đồng thời cũng chính là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ mà nếu thiếu chúng thì một người bị buộc tội phải được coi là vô tội.
Thứ nhất: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Nội dung đầu tiên trong Nguyên tắc này khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Khẳng định chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên bố một người là phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ đã đưa đến nhận thức và hành động mới mẻ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đó là sự khách quan trong quá trình thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm cũng như việc đối xử công bằng với người bị tình nghi phạm tội, nhất là trong việc áp dụng biện pháp bắt giữ, tạm giam và các biện pháp cưỡng chế khác. Nội dung này của nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với người bị tình nghi, người bị cáo buộc phạm tội như người phạm tội, không được định kiến, thiên lệch khi giải quyết vụ án, không được coi người bị tình nghi, bị cáo buộc phạm tội là tội phạm dưới bất kỳ biểu hiện nào, mọi quyền con người của họ phải được tôn trọng ngay cả khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam, họ chỉ bị hạn chế một phần quyền tự do thân thể trong giới hạn pháp luật quy định còn các quyền con người khác vẫn phải được tôn trọng.
Bản án kết tội của tòa án phải có hiệu lực pháp luật thì một người mới bị coi là tội phạm và hình phạt áp dụng đối với họ mới được thi hành.Chừng nào chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn là người vô tội. Nói cách khác, thời gian suy đoán vô tội của người bị buộc tội là từ thời điểm Viện kiểm sát buộc tội đến thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể là bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm. Các cơ quan tố tụng một mặt phải đối xử với họ như người không có tội, mặt khác, phải tạo mọi điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác.
Do vậy, vào thời điểm bản án kết tội chưa có hiệu lực pháp luật thì người bị kết tội vẫn chưa bị coi là người có tội.
Thứ 2: Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội
Nội dung này khẳng định chân lý khách quan thể hiện bản chất cốt lõi của nguyên tắc suy đoán vô tội "Tội không được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh".
Để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được người bị buộc tội là người thực hiện hành vi phạm tội nào đó được quy định trong BLHS.
Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Điều này đồng nghĩa với việc, nếu hoạt động tố tụng không chứng minh được người đó đã thực hiện tội phạm thì không thể truy cứu, kết tội họ.
Tội phạm bao giờ cũng để lại những dấu vết bên ngoài thế giới khách quan và nó được thu thập, củng cố theo theo thủ tục pháp luật để làm căn cứ chứng minh tội phạm, căn cứ buộc tội cho nên chứng cứ bao giờ cũng đòi hỏi phải thỏa mãn các thuộc tính khách quan và chủ quan. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, khi không đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của người bị cáo buộc phạm tội thì không thể kết tội họ, mọi nghi ngờ về tội phạm của người bị tình nghi, bị cáo buộc phạm tội nếu không được loại trừ theo trình tự thủ tục pháp luật qui định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi phạm tội;
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử. Ba giai đoạn này độc lập nhưng lại có cơ chế giám sát, chế ước, bổ sung cho nhau nhằm bảo đảm việc kết tội được chính xác, không làm oan người không phạm tội. Từng chủ thể của giai đoạn tố tụng phải có nghĩa vụ chứng minh tội phạm ở giai đoạn của mình phụ trách và chịu trách nhiệm về việc chứng minh đó.
Trong giai đoạn điều tra, truy tố nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện hành tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 230 và Điều 248 của BLTTHS 2015.
Trong giai đoan xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử ra bản án tuyên bố bị cáo vô tội.
Thứ 3:
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh nhưng có quyền đưa ra chứng cứ và các yêu cầu chứng minh họ không phạm tội hoặc có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm chứng minh tính có lỗi của người bị buộc tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Người bị buộc tội không buộc phải chứng minh mình là vô tội. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó.
Mặc dù pháp luật tố tụng quy định người bị cáo buộc phạm tội không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm nhưng điều đó không có nghĩa là người bị cáo buộc phạm tội rơi vào thế bị động trong quá trình giải quyết vụ án mà trái lại họ có quyền trực tiếp hoặc với sự hỗ trợ của người bào chữa thu thập chứng cứ chứng minh sự vô tội hoặc chứng minh cho các tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với mình. Bên cạnh đó luật tố tụng hình sự còn quy định người bị cáo buộc phạm tội có quyền đưa ra các yêu cầu đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh giải quyết vụ án để làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, đến việc buộc tội đối với mình. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, giải quyết những yêu cầu đó theo qui định của pháp luật, không được từ chối, bác bỏ các yêu cầu của người bị cáo buộc phạm tội nếu không có lý do chính đáng và căn cứ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, người bị cáo buộc phạm tội cũng có quyền tự mình hoặc nhờ và cùng với người bào chữa đưa ra lý lẽ tranh luận với bên buộc tội về tất cả các các vấn đề, các tình tiết liên quan đến vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định nội dung này, tuy nhiên, nó lại để thành một nguyên tắc độc lập với tên gọi nguyên tắc " Xác định sự thật của vụ án" (Điều 15) chứ không phải là một bộ phận của Điều 13 khi quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội.
Việc khác biệt này chỉ là kỹ thuật lập pháp mà không ảnh hưởng gì đến nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:"Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạm của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội". Với quy định này hai yếu tố quan trọng đã được khẳng định:
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm bao gồm cả việc chứng minh có tội và không có tội thuộc về các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Người bị tình nghi, cáo buộc phạm tội không có nghĩa vụ nhưng có quyền chứng minh sự vô tội và chứng minh các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với mình.
Hai yếu tố này này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất nên mọi nhận thức có tính chất chia cắt sẽ không đúng với tinh thần của nguyên tắc này. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định các quyền chứng minh sự vô tội và chứng minh các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị cáo buộc phạm tội tại các điều từ 51 đến 67, đặc biệt là quy định về quyền bào chữa của họ: "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này." (Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Suy đoán vô tội là một nguyên tắc có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và quá trình chứng minh nói riêng; giúp hoạt động chứng minh được thực hiện đúng quy định pháp luật, theo trình tự thủ tục nhất định và loại trừ những yếu tố, vấn đề còn nghi ngờ về hành vi phạm tội. Các quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện trong các giai đoạn TTHS, tạo thành hệ thống các quy phạm ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Đảm bảo người bị buộc tội không bị phân biệt đối xử khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực TTHS.
nguyên tắc suy đoán vô tội còn mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHS; tạo ra một hành lang pháp lý trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự công bằng, khách quan. Không chỉ là quyền của người bị buộc tội và nghĩa vụ của bên buộc tội, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: một người luôn vô tội khi nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội. Như là một điều luật bảo vệ bên yếu thế, chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền, nguyên tắc suy đoán vô tội bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: cơ quan tư pháp, điều tra có trách nhiệm phải tìm được bằng chứng chứng minh vô tội song song với việc tìm bằng chứng chứng minh có tội. Đề cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trước số phận chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của công dân, nguyên tắc suy đoán vô tội là “lá chắn thép” bảo vệ quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, phòng chống oan sai – yếu tố căn bản, thể hiện rõ nhất việc tôn trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người.
Do vậy, trong quá trình tiến hành tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng phải nghiêm túc tuân thủ, tôn trọng và chấp hành theo nguyên tắc này để tránh việc oan sai đối với những công dân vô tội. Nguyên tắc mở ra một định hướng tích cực hơn và được coi là nguyên tắc “vàng” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay.
Trân trọng./.