1. CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017)
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
- Thông tư 143/2023/TT-BQP

2. TÌNH THẾ CẤP THIẾT LÀ GÌ?
Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tình thế cấp thiết như sau:
“Điều 23. Tình thế cấp thiết
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Khoản 4 Điều 3 Thông tư 143/2023/TT-BQP:
“Giải thích từ ngữ
...
4. Tình thế cấp thiết: Là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.”
Như vậy, theo quy định tại hai văn bản trên thì có thể hiểu Tình thế cấp thiết là gì phải xét đến các yếu tố sau:
Thứ nhất, việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của bản thân cũng như của người khác luôn luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; giữa cái cần thiết và cái có thể, cần phải hy sinh để bảo vệ cái cần thiết đó. Trong luật hình sự, điều kiện hợp pháp của tình thế cấp thiết được chia làm hai loại, đó là, loại điều kiện về tính chất của sự nguy hiểm và loại điều kiện về tính chất của hành vi khắc phục nguy hiểm.
- Điều kiện về tính chất của sự nguy hiểm:
Cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chính là sự nguy hiểm đang đe dọa những quyền hoặc lợi ích được pháp luật bảo vệ. Sự nguy hiểm này là thực tế, đang gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho quyền hoặc lợi ích chính đáng của bản thân người hành động trong tình thế cấp thiết hoặc cho lợi ích Nhà nước, của tập thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của người khác.
- Điều kiện về tính chất của hành vi khắc phục nguy hiểm
Việc hy sinh lợi ích này để bảo vệ lợi ích khác lớn hơn, cần thiết và quan trọng hơn phải là biện pháp cuối cùng duy nhất. Nếu còn có những biện pháp khác, không cần gây thiệt hại thì vẫn chưa phải là tình thế cấp thiết. Biện pháp cuối cùng, duy nhất là biện pháp mà chỉ có nó mới có thể ngăn chặn được sự cố nguy hiểm đang xảy ra.
Thứ hai, nguyên tắc cơ bản được lý luận khoa học công nhận và thực tế đã chứng minh trong tình thế cấp thiết là người có hành động gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết đã hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn hơn.
Một yêu cầu đặt ra, thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa (xét cả về tính chất lẫn mức độ). Như đã đề cập, việc so sánh hai lợi ích này không phải lúc nào cũng dễ dàng, mà cần có sự đánh giá, xem xét kỹ lưỡng nguồn nguy hiểm gây ra cho xã hội, thiệt hại mà xã hội gánh chịu, đối tượng bị tác động,…
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết có trái pháp luật hay không chúng ta còn dựa vào các quy định của pháp luật hình sự và dân sự để xác định. Theo các quy định này thì tình thế cấp thiết là những hành động mà Nhà nước khuyến khích mọi công dân thực hiện. Nó không những phù hợp với lợi ích cộng đồng mà còn phù hợp với đạo đức xã hội. Ví dụ: Xe ô tô đang xuống dốc, đột ngột bị mất phanh, để tránh lao vào đám đông người ở phía cuối dốc, lái xe đã điều khiển cho xe lao vào ngôi nhà ven đường và gây hư hỏng ngồi nhà này.
Để xem xét hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết có lỗi hay không? Phải dựa vào khoa học lý luận về yếu tố lỗi trong luật hình sự. Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi, nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn của chủ thể trong khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Như vậy, người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết đã lựa chọn và quyết định cách xử sự phù hợp đòi hỏi của xã hội và như vậy họ không có lỗi.
Thứ ba, vấn đề trong tình thế cấp thiết cần được chú ý là hình thức gây thiệt hại ra.
Thực tiễn cho thấy, các hình thức thiệt hại gồm: Thiệt hại đến tính mạng con người; Thiệt hại đến sức khỏe con người; Thiệt hại đến tài sản; Thiệt hại liên quan đến quyền tự do cơ bản của công dân.
+ Đối với thiệt hại đến tính mạng con người cần phải được chú ý đặc biệt bởi vì tính mạng con người là cái quý giá nhất không thể so sánh hay đánh đổi bằng bất cứ thứ nào. Về nguyên tắc, không thể hy sinh tính mạng của người khác để bảo vệ tính mạng của bản thân mình. Điều này không phù hợp với quy định về tình thế cấp thiết là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn. Nó cũng không phù hợp với đạo đức xã hội. Chỉ trong trường hợp rất đặc biệt mới được phép gây thiệt hại đến tính mạng con người.
+ Thiệt hại đến sức khỏe và tài sản của công dân là thiệt hại dễ dàng chứng minh từ thực tiễn. Thiệt hại liên quan đến các quyền tự do cơ bản của công dân, có thể thấy trường hợp này trong các gia đình chăm sóc người thân thích là nhười bị bệnh tâm thần. Ở đây, vì lợi ích của chính mình mà những người khác phải hạn chế các quyền tự do của họ bằng các hình thức khác như nhốt, giữ trong nhà, theo dõi, giám sát chặt chẽ khi ra đường
Thứ tư, dấu hiệu cơ bản của mặt chủ quan của người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là phải có mục đích bảo về lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác trước nguy cơ bị đe dọa gây thiệt hại.
Nếu thiếu dấu hiệu về mục đích này thì sự gây thiệt hại sẽ không còn đúng nghĩa của tình thế cấp thiết nữa. Nó sẽ là tội phạm có thể ở giai đoạn hoàn thành hoặc phạm tội chưa đạt. Là tội phạm hoàn thành khi thiệt hại này phù hợp với dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nếu thiệt hại chưa đạt đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì nó là tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Về mục đích hành động trong tình thế cấp thiết có các hình thức sau: Bảo vệ lợi ích của Nhà Nước: Bảo vệ lợi ích của tập thể; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mình; Bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác.
Khi hành động, người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải có ít nhất một trong các mục đích kể trên. Về cơ sở lí luận việc hình thành hành động của con người, mỗi hành động của con người không chỉ nhằm một mục đích mà còn hướng đến đạt nhiều mục đích khác nhau. Nếu người hành động trong tình thế cấp thiết có nhiều mục đích và là những mục đích kể trên thì đương nhiên đây là tình thế cấp thiết. Vấn đề đặt ra là người gây thiệt hại có nhiều mục đích trong đó có một trong những mục đích kể trên thì có được coi là tình thế cấp thiết không? Ví dụ: Vì muốn tránh nguy cơ hỏa hoạn cho kho tài sản lớn của Nhà nước, người gây thiệt hại đã chủ động phá tài sản của hàng xóm để tạo lối đi cho xe cứu hỏa tiếp cận được hiện trường. Tác giả cho rằng mặc dù có mục đích phá tài sản của hàng xóm thì hành vi trên vẫn được coi là tình thế cấp thiết, miễn đạt được yêu cầu lợi ích cần bảo vệ lớn hơn lợi ích buộc phải hy sinh.
Thứ năm, nguyên tắc trong tình thế cấp thiết là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn. Nếu ngược lại thì quy định của tình thế cấp thiết có tính chất là hướng dẫn cách xử sự của con người trở nên vô nghĩa.
Cần chú ý mối tương quan giữa lợi ích hy sinh và lợi ích cần bảo vệ. Không phải mọi trường hợp, lợi ích cá nhân đều được đánh giá thấp hơn lợi ích Nhà nước và của tập thể, chẳng hạn, có thể hy sinh tài sản của Nhà nước để bảo vệ tính mạng con người. Cũng không phải mọi trường hợp gây thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ lợi ích lớn hơn đều là tình thế cấp thiết vì nó còn phải phù hợp với đạo đức xã hội, chẳng hạn, khi người bị bệnh nặng cần tiếp máu thuộc nhóm hiến máu thì không thể dùng vũ lực để lấy máu của người khác tiếp cho người này. Khi có nhiều lợi ích cần bảo vệ, về nguyên tắc, người hành động trong tình thế cấp thiết phải bảo vệ lợi ích lớn hơn.
Thứ sáu, nguồn nguy hiểm trong tình thế cấp thiết rất đa dạng, có thể là con người, súc vật, sức mạnh tự nhiên gây ra. Trường hợp nguồn nguy hiểm do con người gây ra cũng có thể chia làm hai loại.
- Loại thứ nhất là con người vô ý gây ra. Nếu người gây ra sự nguy hiểm lại có hành vi gây thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ lợi ích lớn thì tình thế cấp thiết đó vẫn hợp pháp. Theo quy định về tình thế cấp thiết thì việc gây thiệt hại đó không phải là tội phạm và người gây thiệt hại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo Điều 614 BLDS, người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại.
- Loại thứ hai con người cố ý gây ra. Nếu người gây thiệt hại cố ý gây ra. Nếu người gây ra nguồn nguy hiểm với mục đích là tạo cơ sở để từ đó có lý do gây thiệt hại cho người khác hoặc cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể thì theo chúng tôi đó không còn là tình thế cấp thiết. Bởi vì, người gây thiệt hại trong trường hợp này không xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích chính đáng của bản thân mình hay của người khác. Trường hợp này thiếu dấu hiệu chủ quan về mục đích của tình thế cấp thiết.
3. HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI TRONG TÌNH THẾ CẤP THIẾT KHI NÀO BỊ COI LÀ TỘI PHẠM
Một người chỉ được coi là không phạm tội trong tình thế cấp thiết nếu hành vi gây thiệt hại của họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định, cụ thể theo Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025). Căn cứ vào nội dung này, để được miễn trách nhiệm hình sự, cần thỏa mãn các yếu tố sau:
Có tình huống cấp thiết xảy ra: Người thực hiện hành vi rơi vào tình thế buộc phải lựa chọn giữa hai hậu quả: gây thiệt hại nhỏ hơn hoặc để hậu quả lớn hơn xảy ra.
Không còn cách nào khác: Người đó đã cân nhắc mọi khả năng và không thể tránh hậu quả lớn bằng cách khác hợp pháp, ngoài việc buộc phải gây ra thiệt hại nhỏ hơn.
Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa: Đây là yếu tố cốt lõi. Nếu mức độ thiệt hại vượt quá yêu cầu ngăn chặn, người gây thiệt hại vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (quy định tại khoản 2 Điều 23).
Người trong tình thế cấp thiết sẽ không bị coi là phạm tội nếu hành vi của họ thực sự cần thiết, hợp lý và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng một cách tối ưu. Trường hợp gây thiệt hại quá mức cần thiết, người đó vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật.
- Trường hợp vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong tình thế cấp thiết
Mặc dù tình thế cấp thiết là một căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên không phải mọi hành vi gây thiệt hại trong tình huống này đều được miễn truy cứu. Theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025), người gây thiệt hại vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thiệt hại đó rõ ràng vượt quá yêu cầu ngăn chặn.
Nói cách khác, nếu người trong tình thế cấp thiết:
+ Gây thiệt hại không tương xứng với mức độ cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp;
+ Có lựa chọn khác an toàn hơn nhưng không áp dụng;
+ Hành động một cách chủ quan, nóng vội, hoặc cố ý lợi dụng tình huống cấp thiết để gây hậu quả nghiêm trọng, thì hành vi đó không còn được pháp luật bảo vệ, và người thực hiện vẫn bị xử lý hình sự như bình thường.
Do đó, việc nhận định đúng tình thế cấp thiết và ứng xử phù hợp trong giới hạn luật định là yếu tố then chốt để đảm bảo không bị coi là tội phạm. Nếu không nắm vững nguyên tắc này, người hành động có thể vô tình vượt quá ranh giới pháp lý và phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng.
Bạn còn vướng mắc liên quan hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội.
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email: tuvan@luatphucgia.vn