Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được UBND cấp xã cử, được Toà án chỉ định hoặc được người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự lựa chọn khi họ còn đầy đủ năng lực hành vi dân sự làm người giám hộ cho họ khi họ rơi vào tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Khoản 1 Điều 46 BLDS)
Như vậy, giám hộ làm hình thành mối quan hệ giữa một bên là người giám hộ với một bên là người được giám hộ; trong đó bên giám hộ có thể là cá nhân hoặc tổ chức, bên được giám hộ là cá nhân chưa thành niên hoặc cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Giám hộ được đặt ra nhằm tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, đồng thời giúp các cá nhân đó có thể đáp ứng nhu cầu từ các giao dịch dân sự. Theo đó người giám hộ là người thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Có 4 Phương thức giám hộ được pháp luật quy định, cụ thể:
- Giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên (Điều 52 BLDS)
- Giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 53 BLDS)
Giám hộ được cử là giám hộ được xác định theo thủ tục cử người giám hộ trong trường hợp không có người giám hộ đương nhiên cho người cần giám hộ. Theo đó, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân có đủ điều kiện giám hộ làm người giám hộ cho người cần được giám hộ nhưng phải có sự đồng ý của cá nhân hoặc pháp nhân là người giám hộ, đồng thời nếu người được giám hộ là người chưa thành niên nhưng đã đủ 06 tuổi trở lên thì cần phải xem xét đến nguyện vọng của người đó. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền và nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.(Khoản 1 Điều 54 BLDS)
Giám hộ theo lựa chọn là giám hộ mà trong đó người giám hộ được xác định theo ý chí của người được giám hộ. Đây là trường hợp cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự lựa chọn cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự lựa chọn cá nhân, pháp nhân làm người giám hộ cho mình để dự phòng trường hợp họ rơi vào tình trạng cần được giám hộ như mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức trong nhận thức, làm chủ hành vi. Việc lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Lựa chọn người giám hộ là hành vi pháp lý đơn phương của người được giám hộ nên văn bản lựa chọn người giám hộ không bắt buộc phải có chữ ký xác nhận đồng ý của người được lựa chọn. Tuy nhiên, khi người lựa chọn rơi vào tình trạng cần được giám hộ thì cá nhân, pháp nhân được lựa chọn chỉ trở thành người giám hộ nếu họ đồng ý việc giám hộ đó.
- Khi có tranh chấp giữa những người giám hộ đương nhiên
- Khi có tranh chấp về việc cử người giám hộ
- Khi người cần được giám hộ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhưng trước đó (khi còn năng lực hành vi dân sự đầy đủ) họ chưa lựa chọn người giám hộ cho mình
Xem thêm:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
2. Thai nhi liệu có được hưởng di sản thừa kế không?
3. 08 trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Hotline: 0985.181.183
Gmail: luatphucgia@gmail.com
Địa chỉ: Số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hoà, Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội