Pháp luật Việt Nam “không cấm kết hôn” đồng giới nhưng “không thừa nhận”
Thứ Ba,
21/06/2022, 10:30:23
Luật hôn nhân gia đình
1. Quy định về hôn nhân đồng giới tại một số nước trên thế giới
Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các quốc gia hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vẫn là thiểu số trong tổng số quốc gia, lãnh thổ trên toàn thế giới. Quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới chính là Hà Lan. Dự luật về hôn nhân đồng giới được nước này thông qua vào năm 2000, Luật bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/4/2001.
Vào ngày 1/6/2003, Bỉ trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Tiếp đến là Tây Ban Nha, Canada (năm 2005), Nam Phi (2006), Na Uy, Thụy Điển (năm 2009), Argentina, Bồ Đào Nha, Iceland (năm 2010), Đan Mạch (năm 2012), New Zealand, Pháp, Uruguay, Brazil (năm 2013), Anh (năm 2014), Luxembourg, Cộng hòa Ireland (năm 2015), Colombia (năm 2016), Đức, Úc, Phần Lan, Malta (năm 2017). Áo, Ecuador, Đài Loan (năm 2019), Costa Rica (năm 2020). Tính đến năm 2021, hôn nhân đồng giới được công nhận hợp pháp tại 29 quốc gia (toàn quốc hoặc nhiều khu vực), gần đây nhất là vào ngày 7/12/2021, Chile đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, cho phép các cặp đồng giới kết hôn, bắt đầu từ tháng 3 năm 2022. Đây là tín hiệu vui mừng của các cặp đôi đồng giới.
Việc công nhận hôn nhân đồng giới hay không là chủ đề tranh cãi tại nhiều nơi trên thế giới. Những người ủng hộ cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng giới là thể hiện sự bình đẳng và đảm bảo quyền con người, và việc công nhận hôn nhân đồng giới mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Ngược lại, Vẫn còn nhiều quan ngại về hôn nhân đồng giới nên có nhiều quốc gia phản đối.
Đối với quan niệm của Việt Nam xuất phát từ nhiều quan điểm truyền thống của nhiều người nên không chấp nhận người đồng tính. Mặc dù trong xã hội hiện nay có cái nhìn tích cực hơn về người đồng tính nhưng vẫn chưa ủng hộ họ có quyền đầy đủ như người dị tính.
2. Quy định về hôn nhân đồng giới tại Việt Nam
Khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000(Luật cũ) quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Bên cạnh đó, theo điểm e khoản 1 Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 quy định việc kết hôn giữa những người cùng giới tính sẽ bị phạt tiền từ 100.000 - 500.000 đồng.
Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng tại khoản 2 Điều 8 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.
Theo Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 thì những người đồng giới kết hôn với nhau không còn bị phạt. Như vậy, so với quy định trước đây, hiện nay, Nhà nước không còn cấm những người có cùng giới tính kết hôn mà chỉ “không thừa nhận” mối quan hệ hôn nhân này. Đồng nghĩa, những người đồng tính có thể tổ chức đám cưới, sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không được thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Như vậy nghĩa là Nhà nước không cấm nhưng cũng không thừa nhận.
Khi đó, hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sẽ không tồn tại và không được pháp luật thừa nhận nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; cấp dưỡng; thừa kế; tài sản chung vợ chồng…
- Về nhân thân: Giữa hai người đồng tính không có ràng buộc về mặt pháp lý, không được cấp đăng ký kết hôn, không được công nhận là vợ, chồng hợp pháp. Bởi vậy, con cái, cấp dưỡng, quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng… không tồn tại;
- Về quan hệ tài sản: Vì không có quan hệ vợ chồng nên không áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng được quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nếu phát sinh tranh chấp, tài sản không được chia theo nguyên tắc chung về tài sản chung vợ, chồng.
Vậy nếu đối tượng đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì sao?
Theo Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và Luật khác có liên quan.”
Căn cứ quy định này, sau khi chuyển đổi giới tính, cá nhân phải đăng ký thay đổi hộ tịch. Sau đó, người này sẽ có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi. Một trong số các quyền nhân thân là quyền đăng ký kết hôn.
Như vậy, sau khi chuyển giới, đăng ký thay đổi hộ tịch thì người chuyển giới được quyền đăng ký kết hôn với người khác giới tính đã chuyển và quan hệ hôn nhân này sẽ được pháp luật công nhận.
Tựu chung lại, quy định về kết hôn đồng giới tại Việt Nam đã "mở" hơn trước đây. Tuy nhiên, mặc dù không còn cấm nhưng Việt Nam cũng không công nhận mối quan hệ này. Các bạn cũng cần nắm rõ quy định của pháp luật để có lối ứng xử phù hợp.
Trên đây là một số phân tích pháp lý của Luật Phúc Gia, mọi vướng mắc pháp lý liên quan vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Hotline: 0985.181.183
Gmail: luatphucgia@gmail.com
Địa chỉ: Số 55 Phố Đỗ Quang, Phường Trung Hoà, Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội
Trân trọng!