
CĂN CỨ PHÁP LÝ
Điều 15 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.”
Như vậy, có thể thấy rằng, phạm tội chưa đạt thể hiện ý chí chủ quan của người phạm tội muốn thực hiện một hành vi phạm tội đến cùng, nhưng vì những yếu tố bên ngoài mà hành vi đó không thành công.
DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Phân tích sâu điều 15 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017) có thể thấy phạm tội chưa đạt có các dấu hiệu pháp lý sau:
Thứ nhất, người phạm tội đã bắt tay vào thực hiện tội phạm
Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp, nếu việc chuẩn bị công cụ, phương tiện, thu thập thông tin…tại giai đoạn chuẩn bị phạm tội là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa cho các suy nghĩ, ý định phạm tội thì đến giai đoạn này lại là biểu hiện cho quyết tâm đến cùng của tội phạm.
Ví dụ: Tội phạm giết người tại Điều 123 Bộ luật hình sự, người phạm tội đã dùng dao đâm nạn nhân hoặc dùng vật cứng đánh mạnh vào đầu nạn nhân….
Tất các các hành động này thể hiện tội phạm đang diễn ra, người phạm tội đang tác động, xâm phạm đến quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.
Tội cướp tài sản tại Điều 168, người phạm tội đã dùng dao khống chế hoặc dùng dây trói nạn nhân hoặc các hành vi khác bằng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực làm nạn nhân không thể chống cự.
Tất cả các hành động nói trên của người phạm tội nhằm đạt được mục đích cuối cùng của mình (ở tội giết người, người phạm tội đã dùng dao đâm hoặc dùng vật cứng đánh mạnh vào đầu nhằm gây cái chết cho nạn nhân; ở tội cướp tài sản, người phạm tội dùng dao khống chế, đe dạo nạn nhân…nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của nạn nhân).
Thứ hai, người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng, tức tội phạm chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu pháp lý được quy định trong cấu thành tội phạm.
“Không thực hiện được tội phạm đến cùng” có nghĩa là không thực hiện được kết quả cuối cùng mà người phạm tội đã đặt ra, mong muốn nó xảy ra. Cách xác định tội phạm không thực hiện được đến cùng là căn cứ vào loại cấu thành tội phạm.
– Đối với tội phạm có cấu thành vật chất, tức là có dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm, “không thực hiện được tội phạm đến cùng” có nghĩa là hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội như dấu hiệu hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm đó. Ví dụ, người phạm tội giết người mong muốn giết chết nạn nhân nhưng chém trượt nên mới chỉ gây thương tích. Trong trường hợp này, mặc dù hành vi này đã gây thiệt hại nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe của nạn nhân nhưng hậu quả gây thương tích cho nạn nhân không phải là hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là gây chết người.
– Đối với tội phạm có cấu thành hình thức, nghĩa là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu hành vi mà không có dấu hiệu hậu quả, thì “không thực hiện được tội phạm đến cùng” là hành vi của người phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm đó. Ví dụ, người phạm tội hiếp dâm đã dùng vũ lực đối với nạn nhân nhưng chưa giao cấu được thì bị bắt giữ. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết hai dấu hiệu hành vi cơ bản quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể chống cự của nạn nhân và hành vi giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Thứ ba, nguyên nhân tội phạm không thực hiện được đến cùng là do khách quan, ngoài ý muốn của người thực hiện tội phạm.
Khi bắt đầu thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì bao giờ người phạm tội cũng mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra. Tuy nhiên thì không phải bao giờ ý định, mong muốn của tội phạm cũng xảy ra mà nhiều lúc, có thể do nhiều yếu tố khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội như nạn nhân tránh được, có người can thiệp,.. mà tội phạm không được thực hiện đến cùng.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
Căn cứ vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội của người thực hiện, phạm tội chưa đạt chia làm hai loại là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt hoàn thành.
+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội chưa thực hiện hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm do những nguyên nhân ngoài ý muốn.
Ví dụ A định giết B và đã đâm B. Nhưng mới đâm được một nhát sượt qua bả vai thì bị bắt giữ nên không thể đâm tiếp như ý muốn. Kết quả B chỉ bị thương. Trong trường hợp này, người phạm tội biết hành vi của mình chưa thể gây hậu quả chết người mà mình mong muốn.
+ Phạm tội chưa đạt hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm nhưng phạm tội chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn.
Ví dụ A định giết B và đã chém B nhiều nhát, A tin chắc rằng B đã chết nên không chém nữa nhưng B đã không chết do được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người mà mình mong muốn.
Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã kết thúc hành vi phạm tội của mình và cho rằng những hành vi đó đã đủ và cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan của người phạm tội cũng tin rằng hậu quả tội phạm tất yếu sẽ xảy ra. Còn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, người phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình và ý thức chủ quan của họ cũng biết rằng hành vi của mình là chưa đủ để gây ra hậu quả của tội phạm. So với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành thì phạm tội chưa đạt hoàn thành có mức độ thực hiện tội phạm gần nhất với tội phạm hoàn thành. Vì vậy, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có mức độ nguy hiểm nhất trong các trường hợp phạm tội chưa đạt. Bởi lẽ, một người đã thực hiện hết hành vi mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà hậu quả vẫn không xảy ra hoặc hậu quả xảy ra nhưng đó không phải là ý muốn của người phạm tội. Do đó, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành cũng nặng hơn, nghiêm khắc hơn so với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến tội phạm không thực hiện được đến cùng thì có thể chia phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt vô hiệu và các trường hợp phạm tội chưa đạt khác.
+ Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó do sai lầm trong việc đánh giá về đối tượng tác động, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội nên tội phạm không thực hiện được đến cùng. Vì vậy, ở đây ta thấy có thể xảy ra các trường hợp sau:
Người phạm tội sai lầm trong việc đánh giá đối tượng tác động nên hoặc là không có đối tượng tác động như định trộm tiền trong két sắt của cơ quan nhưng không biết rằng tiền đã được chuyển đi nơi khác, định đâm chết người nhưng lại đâm trúng cái gối giả, hoặc đối tượng tác động không có những đặc tính người phạm tội nghĩ là có như đưa hối lộ nhầm cho người không giữ chức vụ, quyền hạn.
Người phạm tội đánh giá sai lầm về tính năng, tác dụng của những công cụ, phương tiện mà mình sử dụng, cho rằng chúng sẽ đem lại kết quả như mong muốn nhưng thực tế lại không phải như vậy. Ví dụ bắn người khác để giết họ nhưng đạn không nổ do bị hỏng. Trong khi người phạm tội tin và mong muốn đạn sẽ nổ và gây chết người nhưng thực tế đạn đã không nổ. Một ví dụ khác là A định giết B bằng thuốc độc và đã cho B uống thuốc nhưng B lại không chết vì đó là thuốc giả.
Các trường hợp phạm tội chưa đạt khác là trường hợp chưa đạt do nguyên nhân không liên quan đến phương tiện phạm tội và đối tượng tác động của tội phạm.
Luật sư khi tham gia vào vụ án mà thân chủ rơi vào những trường hợp như vậy cũng cần xem xét kỹ chứng cứ, tìm hiểu kỹ nội dung, chi tiết của vụ án để có thể đảm bảo thân chủ được xét xử đúng quy định
DỊCH VỤ PHÁP LÝ TẠI LUẬT PHÚC GIA
1. Dịch vụ luật sư tham gia tố tụng: Luật sư Hình sự, Luật sư Dân sự, Luật sư kinh doanh thương mại….
2. Dịch vụ luật sư đại diện ngoài tố tụng:
3. Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật
4. Dịch vụ pháp lý khác
VÌ SAO CHỌN LUẬT PHÚC GIA?
- Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm: Chuyên môn sâu rộng, tận tâm với khách hàng.
- Giải pháp linh hoạt & tối ưu: Mỗi khách hàng có một chiến lược pháp lý riêng biệt.
- Bảo mật tuyệt đối: Cam kết giữ kín mọi thông tin của khách hàng.
Hãy để chúng tôi đồng hành cùng bạn trên mọi chặng đường pháp lý!
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚC GIA
Trụ sở: Tầng 5 tòa nhà văn phòng Số 55, phố Đỗ Quang, Phường Yên Hòa, TP Hà Nội, Việt Nam
Hotline: 0243.995.33.99 - 0912.68.99.68
Email nhận tư vấn: tuvan@luatphucgia.vn
Website: luatphucgia.vn